>
Thừa kế riêng của chồng, vợ có được hưởng?
Theo quy định tại Điều 689 Bộ luật Dân sự, hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất (bao gồm: tặng cho, cho thuê, chuyển nhượng
quyền sử dụng đất …) phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng
thực bởi cơ quan có thẩm quyền.
Việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời
điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Pháp luật không công nhận hợp đồng miệng hoặc viết tay mà không có công
chứng, chứng thực. Trong trường hợp có tranh chấp giữa các bên có liên
quan, hợp đồng miệng hoặc hợp đồng viết tay sẽ bị xác định là vô hiệu.
Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu là nó không làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác
lập.
Đối chiếu với quy định trên, mặc dù bố mẹ chồng bạn đã
cho vợ chồng bạn mảnh đất đó nhưng các bên lại không thực hiện các thủ
tục theo quy định để sang tên nên việc tặng cho này không có hiệu lực
pháp luật. Quyền sử dụng đất vẫn thuộc quyền sử dụng của bố mẹ chồng
bạn. Đến nay, bố mẹ chồng bạn tặng cho riêng chồng bạn thì quyền sử dụng
đất này là tài sản riêng của chồng bạn. Nó không phải là tài sản chung
vợ chồng. Dưới góc độ pháp luật, việc bố mẹ chồng bạn làm hợp đồng tặng
cho riêng cho chồng bạn được hiểu là họ hủy bỏ việc cho chung vợ chồng
bạn trước đây.
Đối với ngôi nhà 3 tầng, ngôi nhà này do vợ chồng bạn
xây dựng, tạo lập ra trong thời kỳ hôn nhân nên theo quy định tại Điều
27 Luật Hôn nhân và Gia đình là tài sản chung vợ chồng. Điều 28 luật này
quy định “Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý,
sử dụng, định đoạt tài sản chung”. Do vậy, mọi giao dịch dân sự liên
quan đến ngôi nhà này đều phải được sự đồng ý của người kia. Trong
trường hợp ly hôn thì về nguyên tắc ngôi nhà được chia đôi, nhưng có xem
xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của
mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản chung. Bên cạnh
đó, pháp luật sẽ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành
niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không
có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Trường hợp không thể chia đôi ngôi nhà thì tòa án sẽ
giao toàn bộ ngôi nhà cho một bên và bên nhận nhà có nghĩa vụ thanh toán
phần chênh lệch cho bên kia. Trường hợp bạn được giao một phần hoặc
toàn bộ ngôi nhà thì bạn không những phải thanh toán cho chồng bạn phần
giá trị chênh lệch (nếu bạn được giao toàn bộ ngôi nhà) bạn còn phải
thanh toán cho bố mẹ chồng giá trị quyền sử dụng đất tương ứng với diện
tích đất được giao.
Về việc ngân hàng cho chồng bạn thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) để vay tiền được pháp luật phân biệt như sau:
Trường hợp thứ nhất, trên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất không ghi nhận quyền sở hữu nhà và trên thực tế cũng chưa có
nhà thì ngân hàng được phép cho chồng bạn thế chấp để vay tiền. Đối
tượng thế chấp ở đây là quyền sử dụng đất, là tài sản riêng của chồng
bạn nên không cần sự đồng ý của bạn. Trong trường hợp này, để vay được
tiền chồng bạn phải chứng minh với ngân hàng đây là tài sản riêng của
chồng bạn bằng cách xuất trình hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được
công chứng, chứng thực và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ đứng tên
chồng bạn.
Trường hợp thứ hai, trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không ghi nhận quyền sở hữu nhà nhưng trên thực tế đã có nhà và nhà
này được xác định là tài sản chung của vợ chồng thì ngân hàng không
được phép cho chồng bạn thế chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
để vay tiền mà không được sự đồng ý của bạn.
Giao dịch dân sự này sẽ bị xác định vô hiệu do vi phạm
điều cấm của pháp luật được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 122 và
Điều 128 Bộ luật Dân sự, vi phạm nguyên tắc vợ chồng có quyền và nghĩa
vụ ngang nhau trong việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung được
quy định tại Điều 128 Luật Hôn nhân và Gia đình.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty Luật Bảo An
41 phố Trần Hữu Tước, Đống Đa, Hà Nội