Anh quê tỉnh xa, học đại học trên thành phố. Những năm đầu, anh chưa có thu nhập nên phần lớn chi phí sinh hoạt, học phí... nên tôi đều lo liệu. Tôi hơn tuổi, kinh doanh, thu nhập không quá cao nhưng cố gắng chắt chiu, ưu tiên lo cho bạn trai học lên thạc sĩ. Tôi tin "đầu tư cho chồng tương lai" là điều xứng đáng.
Ra trường, anh xin được việc nhưng thu nhập không đáng kể. Tôi tiếp tục hỗ trợ mua cho anh chiếc xe máy để tiện đi làm, rồi đưa thêm một khoản để anh đầu tư thiết bị nghiên cứu, khởi nghiệp. Thời điểm đó, không ai nghĩ đến chuyện giấy tờ vay mượn. Gia đình hai bên đều coi như sớm muộn cũng thành thông gia.
Dần dà, công việc của anh thuận lợi, bắt đầu có thu nhập tốt, nói chuyện tự tin hơn, ăn mặc chỉn chu hơn. Tôi nghĩ thời điểm cưới đã gần nhưng khi bàn chuyện chốt ngày, anh bắt đầu né tránh.
Rồi một ngày, tôi vô tình phát hiện tin nhắn tình cảm của anh ta với một cô gái khác. Khi tôi hỏi, anh thừa nhận đã "có cảm xúc mới" và muốn chia tay.
Xác định anh đã cạn tình, tôi yêu cầu hoàn trả số tiền đã bỏ ra suốt nhiều năm. Tôi nói: "Tôi hỗ trợ anh vì xác định sẽ là chồng. Bây giờ không cưới nữa, đương nhiên anh phải trả".
Anh đáp: "Xác định là vay nợ thì phải có giấy vay, chữ ký, công chứng. Cô tự đưa, tôi đâu yêu cầu. Giờ đòi lại thì khác gì làm khó nhau".
Những năm tháng thanh xuân, tin tưởng, hy sinh của tôi giờ bỗng biến thành bị lợi dụng. Xin hỏi, giờ tôi muốn anh hoàn trả lại tiền này thì phải làm thế nào khi hầu như chẳng có bằng chứng, giấy tờ gì.
Tôi xin được luật sư tư vấn pháp lý trong câu chuyện của mình.
Độc giả Thanh Thảo
Luật sư tư vấn:
Trường hợp bạn nêu không mang tính phổ biến nhưng trong đời sống xã hội cũng không ít trường hợp tương tự đã xảy ra. Khi nam nữ chung sống như vợ chồng, việc chia sẻ kinh tế, thu nhập là chuyện bình thường, mang tính hoàn toàn tự nguyện từ hai phía.
Tuy nhiên, khi có tranh chấp thì việc giải quyết gặp rất nhiều khó khăn bởi trước đó các bên không có bất kỳ một thỏa thuận nào bằng văn bản về việc quản lý, sử dụng tài sản chung, riêng.
Trên phương diện pháp lý, việc đòi lại tài sản khi chia tay đòi hỏi phải có chứng cứ chứng minh. Chứng cứ ở đây có thể là văn bản vay nợ hoặc sự thừa nhận bằng lời nói của bên nhận tài sản, nhưng thực tế khi nam nữ chung sống như vợ chồng thì chỉ chú trọng yếu tố tình cảm mà xem thường yếu tố pháp lý.
Hơn nữa, tại thời điểm chu cấp thì cả nam và nữ đều xác định khoản chu cấp đó là tài sản tặng cho chứ không coi đó là tài sản vay nợ. Do vậy, với chiếc xe máy bạn dùng tiền mua cho bạn trai, kể cả có sao kê tài khoản, cũng không thể coi đó là khoản vay trừ khi nội dung chuyển tiền thể hiện việc vay nợ. Việc chu cấp tiền mua thiết bị nghiên cứu, khởi nghiệp cũng vậy, nếu nội dung chuyển tiền không thể hiện vay nợ, thì cũng không có cơ sở để đòi lại.
Qua sự việc bạn nêu, cho thấy rằng việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn tiềm ẩn nhiều vấn đề pháp lý, hệ lụy về tài sản, con cái mà bên chịu thiệt thòi thường là "người vợ". Trường hợp mâu thuẫn dẫn đến ra tòa thì tòa án cũng không công nhận quan hệ vợ chồng.
Về tài sản, tòa án sẽ áp dụng Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết. Theo đó, quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Theo Bộ luật Dân sự, khi chia tài sản của nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì tài sản của ai thuộc về người đó (không chia đôi như chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn).
Để bảo vệ tài sản thì nam, nữ có thể lập văn bản thỏa thuận về tài sản trong thời kỳ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Nội dung văn bản không được trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế, khi một bên đưa ra đề xuất lập văn bản tài sản chung, riêng trong thời kỳ sống chung thì có thể bên kia sẽ không chấp nhận, thậm chí mối quan hệ sẽ có nguy cơ chấm dứt. Đây là lý do tại sao khi nam nữ chung sống như vợ chồng rất khó khăn trong việc minh bạch tài sản. Khi tài sản không minh bạch thì cũng đồng nghĩa không thể củng cố lòng tin giữa hai bên, mối quan hệ rất khó duy trì bền lâu.
Do vậy, nam nữ nên cân nhắc việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, tránh các hệ lụy, phiền toái không đáng có.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty Luật Bảo An, Hà Nội
Nguồn: https://vnexpress.net/chi-tien-cho-ban-trai-an-hoc-6-nam-toi-doi-the-nao-4960412-p2.html
